



Sau 35 năm, Hàn Quốc, Singapore và Nhật Bản là ba nước đầu tư FDI nhiều nhất vào Việt Nam, trong khi doanh nghiệp Mỹ nằm ngoài top 10. Sau sự kiện Việt – Mỹ nâng cấp quan hệ ngoại giao thành đối tác chiến lược toàn diện, truyền thông quốc tế kỳ vọng Việt Nam có thể đón làn sóng FDI thứ 4 với dòng vốn chủ đạo từ nền kinh tế lớn nhất thế giới. Ông nhận định như thế nào về vấn đề này?
Trước đây, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu đến từ các quốc gia và vùng lãnh thổ Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc…
Điều này cho thấy bóng dáng của các nhà đầu tư lớn nhất thế giới đầu tư vào Việt Nam chưa nhiều. Ví dụ như Mỹ, hiện đầu tư ra nước ngoài của quốc gia này khoảng 300 tỉ USD/năm, năm ít nhất cũng 200 tỉ USD, nhưng Mỹ đầu tư vào Việt Nam vỏn vẹn 1 tỉ USD. Nếu Việt Nam thu hút được đầu tư từ các quốc gia siêu cường như Mỹ, EU thì triển vọng tăng trưởng cho nền kinh tế rất cao.
Năm 2023 đã có những tín hiệu tích cực trong luồng vốn đầu tư từ Mỹ, EU… vào Việt Nam. Điều này thể hiện, Việt Nam đang là điểm đến đầu tư sáng giá.

Trong hiện tại, chúng ta có thời cơ lớn, thời cơ này có lẽ còn có thể làm tốt hơn, bởi các lý do sau:
Thứ nhất, Việt Nam là quốc gia hội nhập với nhiều FTA (Hiệp định thương mại tự do) song phương, đa phương, trong đó có những quốc gia lớn nhất trên thế giới. Đây là điều kiện thuận lợi với Việt Nam.

Thứ hai, hệ thống chính trị, kinh tế của Việt Nam rất ổn định, môi trường đầu tư, hệ thống pháp luật liên tục được cải thiện, các doanh nghiệp của ta cũng phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua; nguồn nhân lực cũng phát triển tốt hơn cả về số lượng và chất lượng.
Trước đây, chúng ta dùng công cụ thuế để thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, do vậy, rất nhiều doanh nghiệp đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, nhất là doanh nghiệp công nghệ cao. Có những doanh nghiệp FDI được ưu tiên về thuế, chỉ đóng thuế từ 6 – 7% thuế thu nhập doanh nghiệp, trong khi sàn thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam từ 20-25%.
Khi Việt Nam áp dụng Thuế tối thiểu toàn cầu, những doanh nghiệp FDI đang đầu tư tại Việt Nam sẽ không được ưu tiên về thuế nữa, mức thuế suất sẽ nâng lên 15% từ năm 2024. Rất nhiều người lo ngại nếu mất ưu đãi thuế, doanh nghiệp FDI sẽ rời đi, nhưng bằng chứng năm 2023, số lượng doanh nghiệp đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng 32% so với năm 2022, các chỉ số cơ bản đều tăng, trong đó, giải ngân vốn tăng.
Điều này cho thấy rõ, không phải chỉ ưu đãi thuế doanh nghiệp FDI mới “làm tổ” ở Việt Nam mà chúng ta có nhiều điều kiện thuận lợi để thu hút doanh nghiệp FDI, từ thể chế, môi trường đầu tư, đến các điều kiện thuận lợi về nhân lực, tài nguyên…



Nghĩa là, ngoài câu chuyện ưu đãi thuế, doanh nghiệp FDI sẽ lựa chọn đầu tư ở một quốc gia có môi trường an toàn, thuận lợi và ổn định để đầu tư dài hạn?
Thế giới đang có sự xoay trục về đầu tư ra nước ngoài. Ví dụ như Mỹ, EU khi đầu tư ra nước ngoài, bao giờ cũng tính đến khả năng đầu tư dài hạn, chứ không chỉ chuyện thương mại (đầu tư ngắn hạn). Đầu tư dài hạn có nghĩa là họ “đổ” nguồn lực để xây dựng các công xưởng, nhà máy, thiết lập công ty, xây dựng hệ sinh thái…
Do vậy, khi tình hình địa chính trị, kinh tế thế giới có những thay đổi thì doanh nghiệp FDI phải tìm đến một môi trường đầu tư an toàn, thân thiện và Việt Nam chính là điểm đến như thế.
Việt Nam hiện nay là đối tác chiến lược của hầu hết các nước mạnh trên thế giới. Những điều đó đã tạo cho doanh nghiệp FDI một niềm tin mãnh liệt để đầu tư. Với EU, chúng ta đã có Hiệp định bảo hộ đầu tư (IPA), nếu triển khai cũng tạo niềm tin rất lớn với các nhà đầu tư của EU.
Bên cạnh đó, Việt Nam có năng lực rất tốt để phát triển công nghiệp bán dẫn. Bằng chứng là ngày càng nhiều doanh nghiệp công nghệ Mỹ tới Việt Nam. Điều này thể hiện vai trò của Việt Nam trong chuỗi công nghiệp bán dẫn ngày càng lớn. Các trường đại học, những cơ sở đào tạo hàng đầu như ASU, Arizona cũng mở rộng hợp tác với Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia NIC để hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực bán dẫn.

Tuy nhiên, trong thu hút đầu tư nước ngoài vẫn có những hạn chế là còn thiếu liên kết giữa khối FDI với doanh nghiệp trong nước, và chuyển giao công nghệ chưa hiệu quả. Đồng thời, Việt Nam vẫn chưa thoát phận gia công, ông nhận định như thế nào về vấn đề này?
Đúng như vậy, chúng ta làm rất tốt trong vấn đề thu hút đầu tư nước ngoài, nhưng giá trị gia tăng của các sản phẩm xuất khẩu ra nước ngoài của chúng ta không cao. Điều này chứng tỏ chúng ta chưa tận dụng tốt sự đầu tư nước ngoài vào Việt Nam để tạo hiệu quả cao cho nền kinh tế.
Do vậy, để có thể tạo ra giá trị gia tăng cao cho Việt Nam, chúng ta phải tăng cường sự liên kết giữa khối FDI với doanh nghiệp trong nước và tăng cường chuyển giao công nghệ. Bởi, sự liên kết của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp nội địa bấy lâu nay vẫn là khâu yếu. Qua cơ hội này, chúng ta phải đặt đây là vấn đề trọng tâm, chứ không chỉ làm khơi khơi bên ngoài.
Có một vấn đề mà doanh nghiệp FDI rất quan tâm, đó là nguồn điện. Mỗi một nhà máy sản xuất chip bán dẫn cần công suất khoảng 100 MW điện, tương đương với một nhà máy điện công suất trung bình. Đặc biệt, nguồn điện đó phải là điện sạch, năng lượng tái tạo, chứ không phải điện truyền thống, điện hoá thạch. Chúng ta phải giải quyết tất cả những vấn đề như vậy mới có thể trở thành công xưởng, trung tâm sản xuất chip bán dẫn của thế giới.



Công ty TNHH Kiểm toán IFRS
Công ty cung cấp đa dạng các dịch vụ như kiểm toán báo cáo tài chính, tư vấn thuế, dịch vụ kế toán và dịch vụ thẩm định giá với những chuyên gia hàng đầu làm việc tại các Công ty kiểm toán lớn, các tập đoàn đa quốc gia


